CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Phòng vệ chính đáng(điều 22 Bộ Luật Hình sự 2015)
Phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 22 Bộ luật hình sự với nội dung: “ Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.” Luật hình sự của một số nước gọi là phòng vệ cần thiết (Điều 38 Bộ luật hình sự của liên bang Nga). Bộ luật hình sự năm 1999 đã không dùng thuật ngữ tương xứng mà thay vào đó là thuật ngữ cần thiết tuy không làm thay đổi bản chất của chế định phòng vệ chính đáng nhưng cũng làm cho việc vận dụng chế định này trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả hơn.
Cho đến nay, đã có nhiều nhà khoa học, các cán bộ làm công tác thực tiễn quan tâm đến chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học hoặc tạp chí chuyên ngành bàn về phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện chế định phòng vệ chính đáng; mặc dù Bộ luật hình sự năm 1985 đã được ban hành hơn 10 năm, nhưng chưa có giải thích chính thức nào của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về chế định phòng vệ chính đáng. Do đó, vấn đề phòng vệ chính đáng trong luật hình sự cho đến nay vẫn là vấn đề nhiều người quan tâm và thực tiễn đấu tranh chống tội phạm nhiều trường hợp có nhiều ý kiến khác nhau nên dẫn đến các quyết định khác nhau.
Tuy nhiên, qua việc tổng kết thực tiễn xét xử, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có Nghị quyết số 02/ HĐTP ngày 5-1-1986 hướng dẫn các Toà án các cấp áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, trong đó tại mục II của Thông tư có đề cập đến chế định phòng vệ chính đáng. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, Toà án nhân dân tối cao cũng có chỉ thị số 07 ngày 22-12-1983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Tinh thần của chỉ thị số 07 theo chúng tôi vẫn còn phù hợp với quy định của Điều 15 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 02 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao với nội dung là: Hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi có đầy đủ các dấu hiệu sau dây:
- Hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ phải là hành vi tội phạm hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội;
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ;
- Phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe doạ, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại;
- Hành vi phòng vệ phải cần thiết với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.
Cần thiết không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe doạ gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ.
Để xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không, có rõ ràng là quá đáng hay không, thì phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như: khách thể cần bảo vệ; mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai bên đã sử dụng; nhân thân của người xâm hại; cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xẩy ra sự việc v.v... Đồng thời cũng phải chú ý yếu tố tâm lý của người phải phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ.
Sau khi đã xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy rõ ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng quá đáng và đã gây thiệt hại rõ ràng quá mức đối với hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không cần thiết và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngược lại, nếu hành vi chống trả là cần thiết thì đó là phòng vệ chính đáng.5
Tinh thần của chỉ thị số 07 và nghị quyết số 02 của Toà án nhân dân tối cao tuy chỉ là văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, nhưng qua thực tiến xét xử, các văn bản trên được sử dụng như là một văn bản giải thích chính thức của cơ quan Nhà nứơc có thẩm quyền về chế định phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, do còn hạn chế về nhiều mặt nên cả về lý luận cũng như thực tiễn xét xử các văn bản trên chưa quy định một cách đầy đủ những dấu hiệu của chế định phòng vệ chính đáng, nên thực tiễn xét xử có không ít trường hợp còn có nhận thức rất khác nhau về phòng vệ chính đáng. Ví dụ: Khi nói đến hành vi chống trả một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm, nhưng chưa nêu được căn cứ để xác định thể nào là cần thiết ? Các lợi ích bị xâm phạm theo Điều 15 Bộ luật hình sự bao gồm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của người phòng vệ và của người khác, nhưng bị xâm phạm trong trường hợp như thế nào thì hành vi chống trả được coi là phòng vệ, trường hợp nào thì không được coi là phòng vệ. Các công trình nghiên cứu của một số tác giả về chế định phòng vệ chính đáng cũng mới đề cập đến những khái niệm, những quy định của các văn bản hướng dẫn hoặc nêu một số vụ án mà Toà án các cấp đã xét xử người phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và từ đó rút ra kết luận, nhưng kết luận này không áp dụng cho tất cả các trường hợp, tính khái quát chưa cao.
Căn cứ vào quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và đặc biệt qua thực tiễn xét xử, chúng ta có thể nêu những điều kiện cần và đủ để một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng phải hội tụ đủ các yếu tố sau:
Về phía nạn nhân
Nạn nhân ( người bị chết hoặc bị thương tích) phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của các nhân người phòng vệ hoặc của người khác.
Đang có hành vi xâm phạm là hành vi đã bắt đầu và chưa kết thúc. Ví dụ: A đang cầm dao đuổi chém B hoặc C đang dí súng vào đầu Điều để buộc Điều phải đưa tài sản cho mình. Nếu hành vi chưa bắt đầu, thì mọi hành vi chống trả không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: Trần Tuấn Anh thấy Nguyễn Văn Hùng đi chơi với người yêu của mình nên nói với Hùng: “ Tao sẽ giết mày!” Mới nghe Tuấn Anh nói vậy, Hùng đã rút dao trong người ra đâm Tuấn Anh chết. Trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc thì mọi hành vi chống trả cũng không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: A đánh B bị thương vào đầu, được mọi người can ngăn, A đã bỏ đi, nhưng do bực tức B đã lấy dao đuổi theo A đâm A chết. Tuy nhiên, trong trường hợp hành vi xâm phạm này đã kết thúc, nhưng lại có tiếp hành vi khác của chính người đó xâm phạm đến lợi ích chính đáng cần bảo vệ thì cũng không coi là hành vi xâm phạm đã kết thúc và người có hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ. Ví dụ: A đánh B nhưng B đỡ được, A biết không thể đánh nổi B nên chạy vào nhà B đánh mẹ của B đang bị bệnh nằm trên giường, nên B đã dùng một khúc gỗ vụt mạnh vào đầu A làm cho A ngất xỉu sau đó bị chết. Mặc dù hành vi tấn công của A đã kết thúc đối với B nhưng A lại có tiếp hành vi xâm phạm đến mẹ của B và để bảo vệ mẹ của mình nên B đã chống trả gây thiệt hại cho A nên hành vi của B cũng được coi là phòng vệ. Trường hợp phòng vệ này thường bị nhầm với trường hợp tội phạm do tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự , vì người bị tấn công không phải là người chống trả ( người có hành vi phòng vệ) mà là người khác ( người thứ ba). Tuy nhiên người thứ ba trong trường hợp phòng vệ có thể là người thân của mình, nhưng cũng có thể chỉ là một người không quen biết, còn trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, người bị xâm phạm chỉ có thể là người thân của người phạm tội. Trường hợp phòng vệ này càng dễ nhầm với trường hợp phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra .Hành vi phòng vệ và hành vi được coi là bị kích động về tinh thần chỉ khác nhau ở tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm. Vì vậy, về phía nạn nhân trong trường hợp phòng vệ phải là người có hành vi xâm phạm có tính chất nguy hiểm đáng kể.
Mức độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm (quan hệ xã hội cần bảo vệ). Nếu quan hệ xã hội cần bảo vệ càng quan trọng bao nhiêu thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm của nạn nhân càng nghiêm trọng bấy nhiêu. Ví dụ: Một người trèo tường để đột nhập vào nơi cất giữ tài liệu tối mật về an ninh quốc phòng được canh phòng cẩn thận, thì tính chất nghiêm trọng hơn nhiều so với người trèo tường vào một gia đình nông dân để trộm cấp tài sản.
Mức độ đáng kể của hành vi xâm phạm còn phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân ( người có hành vi xâm phạm). Ví dụ: Hành vi dùng súng để uy hiếp hành khách trên Tầu hoả của một tên cướp nguy hiểm hơn nhiều hành vi lén lút thò tay vào túi người khác để lấy trộm tiền.
Nếu tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm không đáng kể thì hành vi chống trả không được coi là phòng vệ. Ví dụ: A chỉ tát B một cái, B đã rút dao đâm chết A hoặc A chỉ thò tay vào túi của B để trộm cắp, B đã túm cổ áo A đấm tíu bụi cho đến chết, thì hành vi của B trong cả hai trường hợp này đều không được coi là hành vi phòng vệ.
Hành vi xâm phạm phải là hành vi trái pháp luật, nếu hành vi xâm phạm lại là hành vi mà pháp luật cho phép, thì người bị xâm phạm không có quyền chống trả để phòng vệ. Ví dụ: Một cảnh sát đuổi bắt một tên tội phạm nguy hiểm, người cảnh sát này đã bắn chỉ thiên, hô đứng lại, nhưng tên tội phạm vẫn cố tình chạy trốn, buộc người cảnh sát phải nổ súng bắn què tên tội phạm để bắt hắn. Nhưng khi người cảnh sát đến gần, hắn bất ngờ rút dao trong người ra đâm người cảnh cát trọng thương. Hành vi của tên tội phạm này không được coi là hành vi phòng vệ, vì hành vi của người cảnh sát được pháp luật cho phép. Hành vi trái pháp luật, trước hết là hành vi tội phạm và những hành vi khác trái với quy định của pháp luật thuộc các ngành luạt khác như: Luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự, luật hành chính, luật kinh tế và các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, khi xét hành vi xâm phạm trong trường hợp phòng vệ chính đáng phải xét trong mối tương quan với hành vi chống trả, không phải bất cứ hành vi tội phạm nào xảy ra, người có hành vi chống trả gây chết người hoặc gây thương tích cho người có hành vi xâm phạm đều là phòng vệ chính đáng. Ví dụ: A thò tay vào túi B để trộm cắp, nhưng B phát hiện được liền rút dao ra đâm A một nhát vào bụng làm A chết. Hành vi của B không được coi là phòng vệ chính đáng mặc dù hành vi xâm phạm của A là hành vi pham tội ( tội trộm cắp tài sản của công dân). Ngược lại, có những hành vi xâm phạm chưa phải là hành vi tội phạm, nhưng vì nó xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và của công dân nên hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ chính đáng, Ví dụ: Một người trèo tường vào khu vực cấm định hái một ít hoa. Người chiến sĩ bảo vệ phát hiện đã hô đứng lại, bắn chỉ thiên để bắt người này, nhưng vì hoảng sợ nên vẫn bỏ chạy buộc chiến sỹ bảo vệ phải bắn vào chân người này làm họ bị gẫy chân. Sau khi bị bắt, mới biết người này trèo tường vào khu vực cấm chỉ là để hái hoa và không biết đây là khu vực quan trọng cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Như vậy, khi xem xét hành vi của người đang xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, không nhất thiết chỉ căn cứ vào tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm mà phải chú ý đến lợi ích cần bảo vệ, đồng thời phải xét nó trong mối quan hệ với hành vi chống trả để xác định sự chống trả trong trường hợp cụ thể đó có được coi là phòng vệ chính đáng hay không ?
Pháp luật các nước nói chung cà nước ta nói riêng không coi hành vi tấn công của người mắc bệnh tâm thần là hành vi trái pháp luật, bởi vì người mắc bệnh tâm thần ( người điên ) họ không nhận thức được hành vi của họ là nguy hiểm cho xã hội nên họ không có lỗi. Tuy nhiên, nếu một người bị người mắc bệnh tâm thần tấn công, họ vẫn có quyền chống trả để bảo vệ mình, nhưng nếu còn có thể bỏ chạy mà không chạy lại chống trả gây thiệt hại cho người bị tâm thần thì không được coi là phòng vệ. Nhưng nếu bị người say rượu tấn công mình hoặc tấn công người khác thì hành vi gây thiệt hại cho người say rượu lại được coi là hành vi phòng vệ, vì người say rượu nếu xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, theo pháp luật nước ta vần bị coi là hành vi trái pháp luật
Về phía người phòng vệ
Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích xã hội khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ cho người có hành vi xâm phạm . Ví dụ: A đi làm về thấy hai tên thanh niên đang hãm hiếp con gái mình, tiện có chiếc cuốc trên tay, A đã dùng cuốc bổ vào đầu một tên làm cho tên này bị trọng thương. Hành vi của A được coi là hành vi phòng vệ trong trường hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của người khác ( con gái) đang bị xâm phạm.
Nếu người phòng vệ không gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm phạm mà gây thiệt hại cho người khác (thường là người thân của người có hành vi xâm phạm), thì không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: Trần Văn Q bị Phạm Thanh B đánh, nhưng Q không đánh B là lại đánh H (con của B) bị thương tích nặng. Hành vi của Q không được coi là hành vi phòng vệ.
Trường hợp người phòng vệ không gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khoẻ cho người có hành vi xâm phạm mà lại gây thiệt hại khác, thì cũng không được coi là hành vi phòng vệ. Ví dụ: Hoàng Công Đ bị Trần Văn T dùng dao đuổi đánh, để ngăn chặn việc T đưổi đánh mình nên Đ đã dùng bật lửa đốt nhà của T. Hành vi của Đ không được coi là hành vi phòng vệ, vì Đ không gây thiệt hại đến tính mạng hay sức khỏe đối với T mà gây thiệt hại về tài sản của T.
Cũng không coi là phòng vệ chính đáng trong trường hợp người có hành vi xâm phạm gây thiệt hại đến tài sản của người khác, rồi người khác cũng gây thiệt hại lại cũng về tài sản cho người có hành vi xâm phạm. Ví dụ: Nguyễn Văn K ra thăm đồng thấy Bùi Quốc T đang nhổ lúa trên thửa ruộng nhà mình vì hai bên đang có tranh chấp về thửa rưộng này. K chạy về lấy dao ra chặt phá cây trong khu vườn của gia đình T. Hành vi của cả K và T là hành vi cố ý huỷ hoại tài sản của công dân, K không thể lấy lý do: “mày nhổ lúa nhà tao thì tao chặt cây nhà mày”
Hành vi chống trả phải là cần thiết.
Cần thiết không có nghĩa là bên xâm phạm gây thiệt hại như thế nào thì bên phòng vệ cũng chỉ được gây thiệt hại như thế, mà thiệt hại do người có hành vi phòng vệ có thể lớn hơn nhiều so với thiệt hại mà người có hành vi xâm hại gây nên.
Sự chống trả cần thiết trong phòng vệ chính đáng, trước hết phải căn cứ vào tính chất của các lợi ích bị xâm phạm; tính chất của hành vi xâm phạm và các mối tương quan khác giữa hành vi xâm phạm với hành vi phòng vệ.
Lợi ích bị xâm phạm càng quan trọng bao nhiêu, thì hành vi chống trả càng phải mạnh mẽ bấy nhiêu; Ví dụ: Một cảnh vệ nổ súng bắn chết một người đã đột nhập vào khu vực được bảo vệ nghiêm ngặt theo một chế độ đặc biệt, thì hành vi của người bảo vệ được coi là cần thiết và là phòng vệ chính đáng. Nhưng cũng hành vi bắn chết người này lại trong trường hợp một học sinh vào trường hái trộm một ít nhãn và bị bảo vệ bắn chết thì lại không được coi là cần thiết và người bảo vệ đó không được coi là phòng vệ chính đáng. Vì vậy khi xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể trong mối quan hệ giữa lợi ích được bảo vệ và hành vi chống trả.
Tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm càng nguy hiểm và nghiêm trọng bao nhiêu thì hành vi chống trả càng phải quyết liệt bấy nhiêu. Ví dụ: một tên cướp dùng súng uy hiếp mọi người trên xe khách để đồng bọn của y lục soát lấy tài sản, đã bị một cảnh sát hình sự bắn chết. Hành vi của chiến sĩ cảnh sát này được coi là hành vi phòng vệ chính đáng. Nhưng nếu người cảnh sát mới thấy tên cướp giơ dao đe doạ mọi người phải đưa tiền cho y mà đã vội rút súng ra bắn chết ngay tên cướp thì chưa được coi là phòng vệ chính đáng.
Khi đánh giá một hành vi chống trả có cần thiết hay không còn phải căn cứ vào nhiều yếu tó khác như: mối tương quan lực lượng giữa bên xâm phạm và bên phòng vệ, thời gian, không gian xảy ra sự việc.Ví dụ: Trong đêm tối, A bị một số người gọi ra nơi vắng vẻ rồi dùng chân tay đấm đá túi bụi, A thấy thế phải bỏ chạy, nhưng vẫn bị số người này đuổi theo, sẵn có con dao nhọn trong túi, A lấy ra giơ lên doạ: “ thằng nào vào đây tao đâm chết!”. Những người đuổi theo vẫn lao vào để đánh A, liền bị A dùng dao đâm trúng tim một người chết ngay tại chỗ. Nếu xét về phương tiện, thì A dùng dao còn những người tấn công chỉ dùng chân tay không, nhưng nếu xét về mói tương quan lực lượng thì một bên chỉ có một mình A còn bên kia có nhiều người và đặc biệt xét trong hoàn cảnh cụ thể, trong đêm tối hành vi xâm phạm của những người này phải coi là nguy hiểm đến tính mạng sức khoẻ của A, nên hành vi của A được coi là phòng vệ chính đáng.
Phòng vệ chính đáng không chỉ nhằm gạt bỏ sự đe doạ, đẩy lùi sự tấn công trái pháp luật mà nó còn thể hiện thái độ tích cực chống trả sự xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của mình hoặc của người khác. Phòng vệ chính đáng còn là quyền của con người chứ không chỉ là nghĩa vụ, nên không yêu cầu phương pháp phương tiện của người phòng vệ phải như phương pháp phương tiện mà kẻ tấn công sử dụng.
Tóm lại khi đánh giá hành vi chống trả có cần thiết hay không phải xem xét một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án, trong đó đặc biệt là tâm lý, thái độ của người phòng vệ khi xảy ra sự việc, họ không có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn chính xác phương pháp, phương tiện thích hợp để chống trả nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ, chỉ coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng khi sự chống trả rõ ràng là quá đáng.
Cũng coi là phòng vệ chính đáng, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể, một người tưởng lầm rằng người khác có hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của mình hay của người khác mà họ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của người đó. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp phòng vệ này là phòng vệ tưởng tượng.
Phòng vệ tưởng tượng là gây thiệt hại cho người khác do tưởng lầm rằng người này đang có hành vi xâm phạm nguy hiểm cho xã hội.
Người có hành vi phòng vệ tưởng tượng chỉ được coi là không có lỗi khi hoàn cảnh cụ thể cho phép người đó tin một cách hợp lý là có sự xâm phạm thực sự và họ tin rằng là mình không bị nhầm, nếu đặt vào hoàn cảnh của người khác thì ai cũng sẽ bị nhầm như vậy. Ví dụ: Trong đêm tối, chị H đi gọi chồng ở xã bên về nhà có người cần gặp. Khi đi qua đoạn đường vắng, chị bị 3 tên ra chặn đường cướp của chị đôi hoa tai bằng vàng. Khi gặp chồng, chị kể cho anh nghe về việc chị vừa bị cướp. Chồng chị H mượn con dao rồi dùng xe đạp đưa vợ về. Khi đi qua đoạn đường mà chị H vừa bị cướp thì có 3 người từ trong bụi cây đi qua đường; thấy vợ chồng chị H họ đứng lại. Chị H nói với chồng: “ Đúng bọn này vừa cướp hoa tai rồi”. Chồng chị H xướng xe cầm dao lao vào 3 người chém túi bụi làm cho cả bản án sơ thẩm đều bị thương. Sau khi sự việc xảy ra mới biết 3 người này là tổ bảo bệ của Hợp tác xã vừa đi coi đồng về. Trong trường hợp này, hành động dừng lại giữa đường của 3 người trong hoàn cảnh cụ thể này làm cho vợ chồng chị H tin là bọn cướp và không chỉ có vợ chồng chị H mà ai trong hoàn cảnh này cũng sẽ tin như vậy, nên được coi là phòng vệ tưởng tượng và không phải chịu trách nhiệm hình sự . Nếu sự lầm tưởng lại không có căn cứ và trong hoàn cảnh cụ thể đó mọi người đều không thể lầm tưởng thì người có hành vi xâm hại đến tính mạng sức khoẻ của người kác phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và hành vi của họ là hành vi tội phạm do cố ý. Ví dụ: Nguyễn Văn H đang dạo chơi trong Công viên có nhiều người qua lại, thấy một người đang ngồi ở ghế đá đứng dậy lững thững đi về phía mình mà không nói năng gì, H liền rút dao trong người ra đâm người này một nhát vào bụng làm người này ngã gục. Sau khi sự việc xảy ra H cho rằng tưởng người này đến cướp tài sản của mình, nhưng căn cứ vào hoàn cảnh thực tế lúc xảy ra sự việc thì trường hợp của H không phải là phòng vệ tưởng tượng, nên H phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Hiện nay, trong một số sách báo pháp lý,vấn đề phòng vệ tưởng tượng cũng còn có những quan điẻm khác nhau: Có quan điểm cho rằng phòng vệ tưởng tượng không phải là phòng vệ chính đáng, vì không có cơ sở của quyền phòng vệ, vấn đề trách nhiệm hình sự vẫn được đặt ra và được giải quyết như mọi trường hợp sai lầm khác.6
Pháp luật Việt nam không thừa nhận hành vi phòng vệ trước ( phòng vệ từ xa ), tức là chưa có sự tấn công mà đã có hành vi nhằm ngăn chặn sự tấn công như: đấu giòng điện vào cánh cửa đề phòng trộm, dùng bẫy để dề phòng kẻ gian...Nếu việc phòng vệ trước này lại gây ra hậu quả làm chết người hoặc gây thương tích cho người khác thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp tội phạm thông thường ( giết người hoặc cố ý gây thương tích). Tuy nhiên, thực tiễn xét xử nếu hành vi phòng vệ trước lại gây thiệt hại cho đúng kẻ phạm pháp thì người phạm tội cũng được chiếu cố giám nhẹ đáng kể. Ví dụ: Gia đình Trần Văn N thường xuyên bị mất trộm gà, N đã nhiều đêm thức trắng để phục bắt kẻ trộm nhưng không được, N bèn lấy một đoạn giây thép buộc vào cánh cửa chồng gà và cho dòng điện 220 Vol chay qua. Để bảo đảm an toàn cho những người trong gia đình mình, N dặn mọi người phải cẩn thận; trước khi đi ngủ mới được đấu điện vào và sáng thức dậy phải rút điện ra. đến đêm thứ 9 thì kẻ trộm vào và bị điện giật chết, trên tay kẻ trộm còn cầm một bao tải trong đựng 4 con gà. Mặc dù N bị truy cứu trách nhiệm hình sự vể tội giết người theo khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự, nhưng Toà án chỉ phạt N 3 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt) nhưng vẫn được nhân dân đồng tình, thậm chí còn có ý kiến cho rằng không nên truy cứu trách nhiệm hình sự đối với N vì kẻ bị chết là đáng đời, ai bảo đi ăn trộm. ở đây có vấn đề mâu thuẫn giữa ý thức pháp luật với hành vi nguy hiểm cho xã hội, cũng giống như trường hợp đánh chết kẻ trộm cắp khi bị bắt vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy chúng tôi vẫn thấy rằng các nhà làm luật cũng nên tính cả đến các yếu tố truyền thống, phong tục, tâm lý của người Việt nam trong trường hợp “ phòng vệ trước”. Pháp luật của một số nước kể cả các nước phát triển vẫn quy định trong một số trường hợp phòng vệ trước không phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu ở nước ta không thừa nhận hành vi phòng vệ trước thì cũng nên quy định trong một số trường hợp tội phạm do phòng vệ trước được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một cách đáng kể. Phòng vệ trước cũng là trường hợp phòng vệ quá sớm, tức là chưa có hành vi tấn công đã có hành vi phòng vệ.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm, nhưng nếu hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Giới hạn của phòng vệ chính đáng chính là hành vi gây thiệt hại của người phạm tội cần thiết với hành vi xâm phạm, nếu không cần thiết mà gây thiệt hại lớn hơn là vượt giới hạn phòng vệ chính đáng. Cần thiết hay không cần thiết, thiệt hại gây ra lớn hơn hay ngang bằng với hành vi xâm phạm không thể tính bằng phương pháp số học như 5 lớn hơn các số đứng trước nó và nhỏ hơn các số đứng sau nó, mà phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm và tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phòng vệ. Cần thiết càng không phải là ngang bằng theo kiểu A đấm B hai cái thì B cũng chỉ được đấm lại A hai cái, nếu đấm từ cái thứ ba trở đi là vượt quá; cần thiết cũng không có nghiẽa là A gây cho B thiệt hại như thế nào thì B cũng chỉ được gậy thiệt hại cho A như vậy. Bản thân việc phòng vệ chính đáng là ngăn chặn, đẩy lùi hành vi xâm phạm trái pháp luật của một người đối với mình hoặc đối với người khác. Sự vượt quá ở đây chính là sự vượt quá cái giới hạn mà pháp luật cho phép. Tuy nhiên trong thực tế, pháp luật không thể dự liệu hoặc liệt kê từng trường hợp cụ thể các giới hạn đó được mà phải tuỳ thuộc vào các yếu tố, các tình tiết thực tế khi xảy ra vụ án. Ví dụ: Trần Văn Đ là nhân viên bảo vệ cầu X. Cầu bị hỏng đang sửa chữa, đã có biển báo "cấm người qua lại". Nguyễn Văn H đi qua cầu, Đ ngăn lại và bảo H xuống sông đi đò. H không nghe, gây gổ định đánh Đ, nhưng mọi người can ngăn nên H phải quay lại và đe doạ: "Tao sẽ giết mày". H đi rồi, Đ sợ H sẽ quay lại đánh mình nên vào trong lán lấy con dao nhọn giấu vào lưng quần. Sau đó 20 phút, H cùng với em là P bơi thuyền đến, thuyền vừa cặp bờ, H nhảy lên đi thẳng đến chỗ Đ nói những lời thách thức và xông vào đấm Đ túi bụi. Đ bị dồn đánh lại nhìn thấy P ở dưới thuyền cầm dao chạy lên, Đ đã rút dao đam ra nhiều nhất vào bụng H rồi bỏ chạy. Do bị đâm thủng dạ dày, dập gan, vỡ lá lách nên H bị chết. Hành vi phòng vệ của Trần Văn Đ trong trường hợp này là không cần thiết với hành vi xâm phạm, vì trong lúc nạn nhân chỉ tấn công Đ bằng tay, em của H tuy có cầm dao, nhưng còn đang ở dưới bờ sông cách xa Đ. Trong bối cảnh như vậy, Đ đã dùng dao đâm chết H là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Một người muốn được xác định là giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, trước hết phải thoả mãn các dấu hiệu và điều kiện của chế định phòng vệ chính đáng, chứ không thoả mãn điều kiện "cần thiết" giữa hành vi xâm phạm và hành vi phòng vệ.
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý mà chủ yếu là lỗi cố ý gián tiếp - cố ý không xác định. Nếu vô ý làm chết người tấn công mình thì không phải là giết người do vượt quá giớ hạn phòng vệ chính đáng. Ví dụ: A đang cầm súng làm nhiệm vụ bảo vệ, thì bị B say rượu đánh. A không đánh lại vì biết B say rượu, nhưng trong lúc giằng co để B không đánh được mình nên đã vô ý để súng làm B bị chết.
Người bị chết phải là người đã có hành vi xâm phạm đến các lợi ích cần được bảo vệ. Nếu người có hành vi phòng vệ lại gây thiệt hại cho người thứ ba thì không phải giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà tuỳ thuộc vào từng trường hợp mà kết tội người phạm tội về tội giết người hoặc vô ý làm chết người. Ví dụ: A đánh B, nhưng vì B không đánh lại được A nên B giết con của A để đẩy lùi sự tấn công của A thì hành vi của B thuộc trường hợp giết người theo Điều 101 Bộ luật hình sự . Hoặc A dùng dao đuổi chém B, B bị vấp ngã, thấy A vẫn cầm daolao vào mình, B liền rút dao găm phóng lại phía A nhưng không trúng A mà trúng vào ngực C làm C chết tại chỗ, vì lúc đó C thấy A đuổi B nên chạy ra để ngăn cản hành vi của A nhưng không may lại trúng dao của B. Hành vi của B đối với C là vô ý làm chết người chứ không phải giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng chỉ có thể xảy ra khi người có hành vi xâm phạm (nạn nhân) bị chết. Nếu nạn nhân chỉ bị thương và có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 106 Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Về chủ thể
Chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
Bản án số: 35/2016/HSST Ngày: 11/11/2016
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Ngọc Tuấn. Các hội thẩm nhân dân: Ông Đinh Văn Luận
Bà Đặng Thị Mai
Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Lưu Thị Tuyết Nhung - Thư ký TAND tỉnh Bắc Ninh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Phòng - Kiểm sát viên.
Hôm nay, ngày 11 tháng 11 năm 2016, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2016/HSST ngày 14 tháng 10 năm 2016 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê Ngọc Q, sinh năm 1958; quê quán: Thôn H, xã T, huyện G, tỉnh Thanh Hóa; HKTT: Trung tâm điều dưỡng thương binh B, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Là thương binh hạng ¼, tỷ lệ mất sức lao động 100%; trình độ học vấn: 7/10; con ông Lê Ngọc K, sinh năm 1924 và bà Lê Thị A, sinh năm 1922 (đều đã chết); gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; có vợ là Hoàng Thị M, sinh năm 1962 và có 02 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1994; tiền sự: không; tiền án: 01 tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 142/2012/HSST ngày 27/11/2012 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa xử phạt Lê Ngọc Q 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo chưa chấp hành hình phạt tù. Bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.
* Người đại diện hợp pháp của bị cáo:
Bà Hoàng Thị M, sinh năm 1962; trú tại: Trung tâm điều dưỡng thương binh B, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo:
Ông Nguyễn Thành Long - Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH số 1 Bắc Ninh - Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Ninh; có mặt.
* Người bị hại: Anh Trương Bá T (đã chết).
* Người đại diện hợp pháp của người bị hại:
1. Chị Nguyễn Thị T (vợ anh T), sinh năm 1984; có mặt.
2. Bà Lê Thị H (mẹ đẻ anh T), sinh năm 1950; có mặt.
3. Ông Trương Bá T1 (bố đẻ anh T); sinh năm 1949; có mặt.
Đều trú tại: Thôn C, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.
Chị Nguyễn Thị T và bà Lê Thị H đều do ông Trương Bá T1 đại diện theo ủy quyền.
NHẬN THẤY
Bị cáo Lê Ngọc Q bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/6/2016, Trương Bá T, sinh năm 1975, ở thôn C, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Ninh đi xe mô tô BKS 99T1-2664 đến Trung tâm điều dưỡng thương binh ở thôn P, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, T vào gặp ông Trần Hoài N, sinh năm 1950, là thương binh hạng ¼ mất sức lao động 91%, đang ở phòng số 10 dãy nhà A3, khi T vào phòng ông N đang nằm trên giường, T hỏi ông N “Nhà thằng Q ở chỗ nào?”, lúc này ông N hỏi lại T “Chú quen Q thế nào?” thì T nói tục “Tao hỏi mày cứ trả lời”, vừa nói T vừa lấy mũ cối đang đội ở đầu, dơ lên đánh vào đầu ông N, nhưng ông N dơ hai tay lên đỡ nên mũ chỉ trúng vào tay. Khi T dơ mũ lên định đánh cái thứ hai thì ông N nói xin T, đồng thời nói và chỉ “Nhà Q ở bên kia”. Ngay lúc đó, T đi sang nhà Lê Ngọc Q, sinh năm 1958, ở phòng số n, dãy nhà A, thấy cửa phòng đóng, T vừa gọi cửa, vừa dùng tay đập vỡ toàn bộ kính chắn cửa nên kính đã đâm vào cổ tay phải của T làm chảy máu, tiếp đó T dùng chân đạp bung cửa rồi đi vào trong phòng. Sau khi vào phòng T vừa chửi tục và tiến đến giường Q đang nằm, T dùng mũ cối đánh 03 cái liên tiếp vào vùng đầu Q, bị T đánh Q đã bấm chuông gọi cấp cứu, sau đó T đi ra ngoài. Thấy T ra ngoài Q đã xuống xe lăn ngồi và bảo Hoàng Thị M, sinh năm 1962 là vợ ra đóng chốt cửa lại. Khoảng 05 phút sau, anh Nguyễn Đình C, sinh năm 1979 là y tá của trung tâm nghe thấy chuông báo cấp cứu đã đến phòng Q, thấy anh C đến T quay trở lại đi vào phòng Q, sau khi được chị M mở cửa anh C và T vào phòng, lúc này Q đang ngồi trên xe lăn, T tiến đến chỗ Q chửi Q và dùng mũ cối đánh liên tiếp vào vùng đầu Q, Q dơ hai tay lên đỡ, liền đó T lấy cốc thủy tinh uống nước để trên bàn ném trúng hõm
mũi Q làm sây xước nhẹ. Tiếp theo T dùng tay trái lấy phích nước sôi đang để trên bàn uống nước và tay phải ghì đầu Q xuống để đổ nước vào đầu Q, nhưng do vướng nắp nước không đổ ra. Vì bị T hành hung liên tiếp, Q đã lấy con dao chuôi nhựa màu vàng, lưỡi kim loại có 01 cạnh sắc, đầu nhọn, dao dài 22cm, phần lưỡi dài 12cm, chỗ rộng nhất lưỡi dao 2cm ở trên bàn uống nước, Q cầm dao ở tay phải đâm 01 nhát vào ngực trái của T, tiếp đó Q rút dao ra khua ngang về phía người T trúng cẳng tay trái T, còn hai nhát trúng hõm nách trái T. Sau khi bị đâm T đi ra đến khu vực cây si cách cửa phòng Q 5,7m thì bị gục ngã và tử vong.
* Khám nghiệm hiện trường xác định:
Dãy nhà A gồm 13 phòng, theo thứ tự từ Đông sang Tây được đánh số từ 1 đến 13, khu vực sân chung với dãy A3 rộng 14m, trên nền sân trước cửa phòng 9 phát hiện 01 tử thi ở tư thế nằm ngửa, đầu hướng Đông Bắc, chân hướng Tây Nam, tay phải đặt trên bụng, dưới rốn, tay trái xuôi theo chân người, hai chân giang ngang cách nhau 40cm, đầu tử thi sát gốc cây cách cửa ra vào bên trái 5,7m, chân trái cách mép cửa bên trái 4,85m, cách mép cửa bên phải 4,5m, ngay sát tay phải phát hiện 01 mũ cối màu xanh bám dính chất màu nâu, ngay sát dưới chân phải phát hiện 01 đôi dép tổ ong đã cũ dải rác dính chất màu nâu, trên nền sân dưới tử thi tương ứng vùng đầu, cổ, lưng có vũng máu dạng đọng trên diện tích 0,55m x 1,25m.
Xem xét phòng số 9 thấy như sau: phòng chia làm hai ngăn, phòng ngoài là nơi ngủ và tiếp khách KT 5,8m x 2,38m, có 01 cửa ra vào bằng gỗ hai cánh mở vào trong ở tình trạng mở KT 1,2m x 2,25m, cửa có cấu tạo dưới là ba lô gỗ đặc, trên là hoa sắt, ngoài bịt kính, mặt trong kính dán giấy màu xanh, tại hoa sắt cánh cửa bên phải (nhìn từ ngoài vào) phát hiện kính vỡ hoàn toàn, tại mặt ngoài cửa rải rác bám dính chất màu nâu, trên nền nhà khu vực cửa ra vào và hành lang phát hiện nhiều mảnh kính vỡ dán giấy màu xanh trên diện 6,7m x 2,3m, một số mảnh kính bám dính chất màu nâu dạng nhỏ giọt, cũng tại vị trí này phát hiện dấu vết màu nâu dạng nhỏ giọt diện 5m x 3,2m, khu vực cửa ra vào dọc hành lang phòng 10, 11, 12, 13 có dấu vết màu nâu dạng nhỏ giọt trên dài 17,4m. Sát tường phía Đông cách cửa ra vào 2m kê 01 bàn hình bầu dục để uống nước KT 0,97 x 0,58 x 0,6m, phía dưới bàn trên nền nhà có 01 ca đựng nước bị đổ, 01 phích màu đỏ bị vỡ ruột, tiếp theo là 01 bàn hình chữ nhật KT 0,98 x 0,62 x 0,63m, trên bàn có một số vật dụng và 01 con dao loại dao gọt hoa quả chuôi nhựa màu vàng, lưỡi kim loại có 01 cạnh sắc, đầu nhọn, dao dài 22cm, phần lưỡi dao dài 12cm, chỗ rộng nhất lưỡi dao 2cm, dao bị cong, toàn bộ phần chuôi và lưỡi rải rác bám dính chất màu nâu. Trên nền nhà phía dưới bàn này phát hiện nhiều mảnh thủy tinh bị vỡ vụn, dạng mảnh vỡ của ruột phích trên diện 85cm x
90cm, cũng tại khu vực này trên nền nhà phát hiện nhiều mảnh vỡ thủy tinh, dạng mảnh cốc thủy tinh trên diện 1,1m x 0,8m.
* Khám nghiệm tử thi bị hại Trương Bá T:
- Khám nghiệm ngoài xác định các dấu vết tổn thương sau:
Vùng giữa trán dưới đường chân tóc trán 5,5cm có vết sây xát da không liên tục diện 0,6cm x 0,2cm.
Dọc sống mũi ngay sát gốc mũi có vết sây xát da hình thước thợ, cạnh ngang dài 0,5cm, cạnh dọc dài 0,1cm vết sây xát mở góc xuống dưới và sang trái.
Vùng ngực trái cách đường giữa trước 1cm, dưới hõm ức 6cm có vết thương rách da nằm chếch chéo trên diện 1,1cm x 0,5cm, khép miệng vết thương dài 1,2cm, bờ mép sắc gọn, đầu bên trái của vết thương có vết sây xát da diện 3,2cm x 0,1cm.
Thành ngực vững, vùng bụng không phát hiện tổn thương. Mặt trong 1/3 giữa cẳng tay phải có vết sây xát da trên diện 6cm x 0,8cm; mặt trước cổ tay phải có vết rách da chếch chéo trên diện 1,8cm x 0,3cm, bờ mép gọn làm đứt gân dầu dưới cơ cẳng tay phải, lòng bàn tay và kẽ ngón tay dính nhiều chất màu nâu đỏ; mặt trước ngoài cổ tay phải có nhiều vết sây xát rách da nông, các vết sây xát da mép gọn trên diện 1,5cm x 1cm.
Vùng hõm nách trái có vết thương rách da trên diện 1,2cm x 0,5cm, bờ mép gọn, khép miệng vết thương dài 1,3cm, sâu 1 cm; cách vết thương trên 1cm có vết thương rách da trên diện 1,4cm x 0,5cm, bờ mép sắc gọn, khép miệng vết thương dài 1,6cm, sâu 4,5cm.
Mặt trước trong 1/3 trên cẳng tay trái có vết thương rách da trên diện 0,5cm x 0,1cm, bờ mép sắc gọn; mặt sau khuỷu tay trái có vết sây xát da diện 1,5cm x 1cm; mặt sau ngoài 1/3 trên cẳng tay trái có vết thương rách da hình chữ Z, cạnh 1 dài 1,4cm, cạnh 2 dài 0,6cm, cạnh 3 dài 0,8cm, bờ mép gọn, sâu sát xương, rộng 0,5cm.
* Mổ tử thi:
Khoang liên sườn 2, 3 bên trái, cách bờ giữa xương ức 1cm có vết thủng cân cơ trên diện 2cm x 0,4cm, bờ mép gọn. Tụ máu mặt sau xương ức trên diện 7cm x 8cm; phổi phải xẹp, khoang lồng ngực trái nhiều máu đông; mặt trước bao tim có vết thủng trên diện 1,5cm x 0,5cm, trong khoang màng tim có chứa nhiều máu; mặt trước của tim có vết thủng hình gần giống thước thợ cạnh 1 dài 0,6cm, cạnh 2 dài 1,3cm mở góc sang trái. Vết thủng tim thấu vào tâm thất phải đi qua vách liên thất sang tâm thất trái; mặt gan nhẵn
không tổn thương, khoang ổ bụng khô; dạ dày có chứa đầy thức ăn còn rõ hạt.
Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ xác vật chứng sau: Các mảnh kính vỡ tại hiện trường; 01 con dao chuôi nhựa màu vàng là loại dao gọt hoa quả, lưỡi kim loại có 1 cạnh sắc, đầu nhọn, dao dài 22 cm, phần lưỡi dài 12cm, chỗ rộng nhất lưỡi dao 2cm, tình trạng dao bị cong, chuôi và lưỡi bám dính chất màu nâu; 01 phích đựng nước màu đỏ, không có nắp và bị vỡ hoàn toàn phần lõi (ruột phích); 01 mũ cối màu xanh bám dính chất màu nâu; 01 quần và 01 áo dài của tử thi; 01 điện thoại Nokia màu đen đã cũ và 01 áo sơ mi cộc tay cổ tròn màu trắng đục, vạt áp phía trước có 02 vết rách không mất miếng.
* Tại bản kết luận giám định số 191/KLGĐ – PC54 ngày 31/7/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Nguyên nhân chết của Trương Bá T là do vết thương thấu tim làm mất máu cấp, dẫn đến suy hô hấp, suy tuần hoàn rồi chết. Cơ chế hình thành dấu vết là do vật sắc nhọn gây nên.
* Tại bản Kết luận giám định số 2661/C54(P4) ngày 21/7/2016 của Viện khoa học hình sự - Tổng cục Cảnh sát kết luận: Mẫu máu ghi thu của nạn nhân Trương Bá T gửi giám định có tìm thấy thành phần Ethanol (cồn), nồng độ 364,5mg/100ml máu.
* Tại bản Kết luận giám định số 29/KLGĐ – PC54 ngày 05/9/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Các dấu vết màu nâu ký hiệu M1, M2, M3, M4, M5, M6 và M7 gửi giám định là máu người, nhóm máu A; Máu của nạn nhân Trương Bá T là nhóm máu A.
Về trách nhiệm dân sự ông Trương Bá T1 là bố đẻ của Trương Bá T xác định: Sau khi sự việc xảy ra gia đình ông đã phải chi phí mai táng cho T hết 39.210.000 đồng, đến nay bị cáo Q chưa bồi thường gì cho gia đình ông mà chỉ mới có lễ khi đến thắp hương 49 ngày cho T được 1.000.000 đồng. Nay ông Trọng yêu cầu Q phải có trách nhiệm bồi thường cho ông toàn bộ số tiền mai táng phí cho T và bồi thường các khoản phí khác theo quy định của pháp luật, đồng thời yêu cầu Q phải có trách nhiệm nuôi dưỡng 03 cháu là con của anh T đến khi các cháu trưởng thành.
Trong quá trình điều tra, bị cáo Q đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại Cáo trạng số 67/Ctr-VKS-P2 ngày 13/10/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Lê Ngọc Q về tội “Giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Q khai: giữa bị cáo với anh T không có mối quan hệ gì mà chỉ biết anh T là người sinh sống tại địa phương nơi bị cáo đang điều trị. Vào khoảng hơn 12 giờ 30 phút ngày nào bị cáo không nhớ rõ, lúc đó bị cáo đang nằm xem Ti vi nghe thấy tiếng chửi. Sau đó, bị cáo nhìn thấy anh T đập vỡ cửa kính và đạp cửa ra vào, anh T dùng mũ cối đập vào mặt, má bị cáo 04 cái. Bị cáo bấm chuông gọi cán bộ. Vợ bị cáo nằm ở giường trong nhìn thấy thế sợ cũng không dám can ngăn. Khi anh T đi ra ngoài, vợ bị cáo ra chốt cửa. Sau đó, anh T lại đạp cửa xông vào. Lúc này, anh C là cán bộ y tế trung tâm đã đi ra ngoài. Bị cáo xuống ngồi tại xe lăn thì anh T vào tiếp tục dùng mũ cối đập 02 đến 03 cái nữa vào đầu bị cáo. Sau đó, anh T cầm cốc uống nước thủy tinh ném thẳng vào mặt làm bị cáo bị thương ở sống mũi và dùng tay trái ghì đầu bị cáo xuống, dùng tay phải cầm phích nước nóng dội vào đầu bị cáo; bị cáo với được con dao gọt hoa quả để trên bàn ti vi đâm vào người anh T, gạt rơi phích nước. Anh T bị dao gạt vào tay nên bị đứt tay. Sau đó, anh T quay ra cửa. Còn vợ bị cáo, khi thấy anh T ném cốc thủy tình thì chạy ra khỏi phòng, trong phòng lúc đó chỉ còn lại bị cáo và anh T.
Sau khi anh T chết, gia đình bị cáo đã phúng viếng và bồi thường được
16.000.000 đồng.
Bà M trình bày: trưa hôm đó bà M đang ngủ trên giường bên cạnh. Bà M nghe thấy tiếng anh T chửi bới và đánh bị cáo Q. Do sợ hãi nên bà M không dám can ngăn. Khi anh T đi ra khỏi phòng, bà đang dọn dẹp thì thấy anh T quay lại, bà chạy ra gọi bảo vệ, trong phòng lúc này chỉ còn lại bị cáo
Q. Sự việc trong phòng thế nào bà không biết. Đến nay gia đình đã bồi thường cho người bị hại số tiền là 16.000.000 đồng.
Đại diện cho gia đình người bị hại, ông Trọng xác nhận sau khi anh T chết, gia đình bị cáo đã phúng viếng và thăm hỏi số tiền 1.000.000 đồng, sau đó tiếp tục bồi thường cho gia đình ông 15.000.000 đồng. Gia đình ông đã đứng ra lo tang lễ cho anh T hết 39.120.000 đồng và ông yêu cầu bù đáp tổn thất về tình thần cho 06 người, đồng thời yêu cầu bị cáo Q cấp dưỡng nuôi 03 con của anh T theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm hình sự, ông Trọng đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Anh C trình bày: anh không có quan hệ họ hàng gì với bị cáo cũng như người bị hại. Trưa hôm đó, anh đang ăn cơm thì nghe tiếng chuông cấp cứu tại phòng bị cáo Q. Anh chạy xuống thì thấy anh T đang đứng cạnh xe máy, anh T nhờ anh C băng vết thương ở tay. Anh C đi vào phòng bị cáo thì thấy
cửa kính bị vỡ, anh T đi cùng anh C chạy vào chửi và dùng mũ cối đánh bị cáo. Thấy vậy, anh C chạy về phòng trực để báo bảo vệ và lãnh đạo cơ quan, khi quay lại thì đã thấy anh T nằm ở sân. Sự việc trong phòng bị cáo Q diễn ra thế nào anh C không biết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội giữ nguyên Cáo trạng truy tố, sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án đã đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Q phạm tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” như Cáo trạng đã truy tố.
Áp dụng khoản 1 Điều 95; điểm b, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33; Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Lê Ngọc Q từ 20 đến 24 tháng tù. Tổng hợp với 42 tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 142/2012/HSST ngày 27/11/2012 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa, buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung cho cả hai bản án từ 62 đến 64 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Q phải bồi thường cho gia đình người bị hại do ông Trương Bá T1 là người đại diện theo ủy quyền
31.210.000 đồng là tiền mai táng phí và bù đắp tổn thất về tình thần số tiền là 36.300.000 đồng; cấp dưỡng nuôi 03 con của anh T mỗi cháu 500.000 đồng/tháng.
Về tang vật của vụ án, vị đại diện VKS đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ tang vật theo Biên bản bàn giao giữa cơ quan điều tra với Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh; trả lại ông T1 01 điện thoại di động màu đen, hiệu Nokia đã qua sử dụng.
Bào chữa cho bị cáo, Luật sư Nguyễn Thành Long cho rằng: Về tội danh, Cáo trạng truy tố bị cáo Q theo khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự là không phù hợp mà bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự. Bởi lẽ, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo là do anh T liên tiếp đánh bị cáo nhiều lần. Tại thời điểm xảy ra sự việc, bị cáo bị liệt nửa người, nhiều trọng bệnh, hành vi của anh T có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe của bị cáo. Vì vậy, Luật sư cho rằng hành vi này của bị cáo là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và đã bồi thường cho gia đình anh T số tiền là 16.000.000 đồng. Hơn nữa, đại diện gia đình của người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, Luật sư đề nghị HĐXX áp dụng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, p
khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo ở mức án nhẹ nhất về tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.
Bị cáo Q nhất trí với quan điểm bào chữa của Luật sư. Bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện hợp pháp của người bị hại không tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát.
Đối với quan điểm của Luật sư, Đại diện Viện kiểm sát đối đáp, phát biểu quan điểm cho rằng: Trong vụ án này, anh T đã đến đánh bị cáo Q 02 lần, bị cáo đã tỏ ra bực bội. Lần thứ 02 anh T đến không có hung khí gì, bị cáo Q có đủ sức khỏe để chống trả nhưng bị cáo đã dùng dao đâm liên tiếp nhiều nhát vào người anh T, vì vậy Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Ngọc Q đã hoàn toàn khai nhận về hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu do Cơ quan điều tra thu thập được đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 16/6/2016, anh Trương Bá T, sinh năm 1975 ở thôn C, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Ninh đã đến Trung tâm điều dưỡng thương binh T tìm gặp bị cáo Lê Ngọc Q. Tại phòng riêng của bị cáo Q, anh T đã chửi bới, dùng mũ cối đập khoảng 02 đến 03 cái vào vùng đầu, mặt của bị cáo nhưng bị cáo đều đỡ và tránh được. Sau đó, anh T đi ra ngoài, khoảng 5 phút sau thì quay lại. Thấy bị cáo Q đang ngồi trên xe lăn, anh T tiếp tục chửi bới, dùng mũ cối, cốc thủy tinh và phích nước để đánh bị cáo. Do bị anh T đánh, bị cáo đã lấy được con dao chuôi nhựa màu vàng dùng để gọt hoa quả đang ở trên bàn cạnh đó, bị cáo cầm dao trên tay phải đâm 01 nhát trúng ngực trái của anh T. Tiếp đó, bị cáo khua dao ngang về phía người anh T thì trúng 02 nhát vào cẳng tay trái và 02 nhát vào hõm nách trái của anh T. Hậu quả là anh T đã gục ngã và tử vong tại cửa phòng.
Xét về tội danh, HĐXX thấy: bị cáo là thương binh nặng, hạng 1/4 với tỷ lệ mất sức lao động 100% sức khỏe; đang phải điều trị bệnh với nhiều thương tích nguy hiểm trên cơ thể, bị liệt nửa người không đi lại được. Bản thân người bị hại dùng hung khí nguy hiểm như mũ cối, cốc thủ tinh, phích nước hành hung bị cáo, gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của bị cáo.
Hành vi này của người bị hại đã và đang diễn ra, chưa chấm dứt. Về tương quan lực lượng, người bị hại có sức khỏe bình thường, tuổi đời còn trẻ; phía bị cáo Q là thương binh nặng, không có khả năng tự bảo vệ bản thân, trong quá trình sinh hoạt phải có người giúp đỡ. Khi xảy ra sự việc thì bà M (vợ bị cáo) và anh C (nhân viên y tế) đều không có mặt trong phòng. Như vậy, khi anh T có hành vi xâm hại đến sức khỏe của bị cáo đã làm phát sinh quyền tự phòng vệ để bảo vệ mình. Nếu hành vi của người bị hại đã chấm dứt, nhưng do bị ức chế về tinh thần mà bị cáo đã dùng dao đâm gây tử vong cho bị hại thì sẽ phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, trong trường hợp này, như đã phân tích ở trên, hành vi trái pháp luật của người bị hại vẫn đang tiếp diễn, vì vậy hành vi dùng dao đâm gây ra cái chết cho anh T của bị cáo thuộc trường hợp “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự như lời bào chữa của Luật sư tại phiên tòa. Vì vậy, HĐXX tiến hành xét xử bị cáo theo tội danh “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” là phù hợp với quy định của pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, do vậy cần phải xét xử nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Về nhân thân của bị cáo, HĐXX thấy: Năm 2012, bị cáo bị TAND huyện T, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân nay lại phạm tội, như vậy lần phạm tội này của bị cáo thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, HĐXX cũng thấy rằng, từ quá trình điều tra cho đến phiên tòa hôm nay, bị cáo luôn tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã cùng gia đình bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền là 16.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của gia đình bị hại tại phiên tòa đã đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Mặc dù bị cáo là thương binh nặng, nhưng xét thấy cần buộc bị cáo cách ly khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Khi quyết định hình phạt, cần áp dụng Điều 51 Bộ luật hình sự để tổng hợp với Bản án số 142 của TAND huyện T để buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung cho cả hai bản án.
Về trách nhiệm dân sự: Ông T1 là đại diện gia đình người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 39.210.000 đồng tiền mai táng phí; cấp dưỡng nuôi con chung của anh T và chị Thanh hàng tháng và bù đắp tổn thất tinh thần cho gia đình ông. Xét thấy, những yêu cầu này của ông T1 là có căn cứ nên cần chấp nhận và được xem xét cụ thể như sau:
- Tiền mai táng phí: 39.210.000 đồng.
- Bù đắp tổn thất về tinh thần: 30 tháng lương tối thiểu x 1.210.000
đồng = 36.300.000 đồng.
- Cấp dưỡng nuôi 03 con của anh T và chị T, mỗi cháu 500.000
đồng/tháng cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi.
Về tang vật của vụ án: 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen, trả lại cho ông T1; các tang vật khác không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST và án phí DSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc Q phạm tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 96, điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46;
điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33; Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Xử phạt bị cáo Lê Ngọc Q 20 (hai mươi) tháng tù. Tổng hợp với Bản án 142/2012/HSST ngày 27/11/2012 của TAND huyện T, tỉnh Thanh Hóa phần hình phạt bị cáo chưa chấp hành là 42 tháng tù, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 62 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 610, 612 Bộ luật dân sự buộc Lê Ngọc Q phải bồi thường cho gia đình anh T do ông Trương Bá T1 làm đại diện tổng số tiền mai táng phí là 39.210.000 đồng; tiền bù đắp tổn thất tinh thần là 36.300.000 đồng, tổng cộng là 75.510.000 đồng nhưng được trừ
16.00.00 đồng gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình anh T, như vậy bị cáo còn phải bồi thường 59.510.000 đồng.
Buộc bị cáo cấp dưỡng cho cháu Trương Bá B, sinh ngày 07/01/2006; cháu Trương Kiều T, sinh ngày 14/11/2007 và cháu Trương Bá P, sinh ngày
06/9/2013 mỗi cháu 500.000 đồng/tháng kể từ tháng 7/2016 cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi.
- Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho ông Trương Bá T1 01 điện thoại di động màu Nokia màu đen cũ có số imei 353081/02/760882/0.
Tịch thu tiêu hủy các mảnh kính vỡ; 01 phích đựng nước màu đỏ, không có nắp, bị vỡ hoàn toàn phần lõi; 01 con dao chuôi nhựa màu vàng, loại dao gọt hoa quả, lưỡi kim loại có 1 cạnh sắc nhọn, đàu nhọn, dao dài 22cm, phần lưỡi dài 12cm, chỗ rộng nhất lưỡi dao 12cm, dao bị cong, chuôi và lưỡi bám dính chất màu nâu; 01 mũ cối màu xanh bám dính chất màu nâu; 01 quần và 01 áo dài; 01 áo sơ mi cộc tay cổ tròn màu trắng đục, vạt áo phía trước có 2 vết rách không mất miếng.
(Toàn bộ tang vật được thể hiện tại biên bản bàn giao vật chứng giữa cơ quan điều tra với Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh)
- Về án phí: Bị cáo Lê Ngọc Q phải chịu 200.000 đồng án phí HSST và
2.925.00 đồng án phí DSST
Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao;
- VKSND tỉnh Bắc Ninh;
- Phòng PV 27; PC 81CA tỉnh Bắc Ninh;
- Trại tạm giam CA tỉnh Bắc Ninh;
- Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh;
- Bị cáo, người tham gia TT;
- Lưu HS, VP.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Ngọc Tuấn